Điểm lẻ ở các cơ sở giáo dục mầm non công lập ở vùng khó khăn

Thảo luận trong 'Máy công nghiệp' bắt đầu bởi bomroitruc, 27/2/18.

  1. bomroitruc

    bomroitruc Expired VIP

    Bài viết:
    329
    Đã được thích:
    0
    Nghị định mở rộng đối tượng ăn trưa cho trẻ mẫu giáo và kinh phí cung cấp được tính theo % lương cơ sở, đồng thời bổ sung chế độ cho giáo viên mầm non trực tiếp dạy 2 buổi/ngày tại các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo ghép từ hai độ tuổi trở lên ở các điểm lẻ hoặc trực tiếp dạy tăng cường tiếng Việt tại các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo có trẻ em là nhà máy tộc thiểu số tại các điểm lẻ ở các cơ sở giáo dục mầm non công lập ở vùng cạnh tranh hoặc đặc trưng cạnh tranh. >> thiết bị mầm non giá rẻ

    [​IMG]

    Thêm cơ hội đến lớp cho trẻ mầm non thuộc hộ cận nghèo

    Trước khi có chính sách hỗ trợ ăn trưa của Nhà nước cho con nít thuộc diện khó khăn theo quy định tại Quyết định số 239/2010/QĐ-TTg và Quyết định số 60/2011/QĐ-TTg, việc huy động trẻ ra lớp là một cạnh tranh, vì cha mẹ trẻ thường có thói quen cho con lên nương cùng chứ không có điều kiện đưa trẻ tới trường.

    trẻ em không được chăm sóc giáo dục theo chương trình giáo dục mầm non, không được ra lớp hoặc chỉ ra lớp 1 buổi/ngày, không được công sở ăn trưa tại trường, do vậy, chất lượng chăm sóc, giáo dục không được bảo đảm, tỷ trọng trẻ suy dinh dưỡng cao. >> thiết bị mầm non

    Từ khi có chính sách hỗ trợ ăn trưa của Nhà nước, các cơ sở giáo dục mầm non có điều kiện để cơ quan ăn bán trú tại trường cho trẻ.

    Ở nhiều địa phương, cơ sở giáo dục mầm non đã huy động thêm sự đóng góp của phụ huynh và các ban ngành đoàn thể (hội thanh nữ, đoàn thanh niên…) tăng gia sản xuất, trồng rau sạch, đóng góp trứng, thịt, gạo, củi, hỗ trợ ngày công nấu ăn... để tăng lên chất lượng ăn bán trú cho trẻ tại trường. Nhờ đó, tỷ trọng huy động trẻ ra lớp tăng rõ rệt, đảm bảo chịu khó và duy trì tốt việc học 2 buổi/ngày, tạo điều kiện để chăm nom giáo dục trẻ tốt hơn.

    chế độ này đã hoạt động sâu sắc so với việc lớn mạnh giáo dục mầm non vùng cạnh tranh, vùng núi cao, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần, tăng tỷ lệ huy động trẻ đến trường và tỷ trọng chịu khó; nâng tỉ lệ trẻ được chú tâm giáo dục 2 buổi/ngày, từ đó, giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng, góp phần nâng cao chất lượng để mắt giáo dục trẻ.

    Khi Quyết định số 60/2011/QĐ-TTg hết hiệu lực, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tham mưu trình Chính phủ tiếp tục duy trì cung cấp bữa ăn trưa cho trẻ thuộc các đối tượng này, và Nghị định số 06/2018/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày 5/1/2018.

    Tại Nghị định số 06/2018/NĐ-CP đã bổ sung thêm đối tượng là trẻ con mầm non thuộc các hộ cận nghèo, là đối tượng cũng gặp phần lớn cạnh tranh khi đến lớp, để hỗ trợ giúp các em duy trì siêng năng, được chăm nom, giáo dục tốt tại trường. Đồng thời, để chắc chắn bù đắp trượt giá, Nghị định số 06/2018/NĐ-CP đã tính cung cấp ăn trưa cho trẻ theo % lương cơ sở.

    Bình đẳng trong chế độ cho giáo viên mầm non dạy hợp đồng

    Cả nước hiện có trên 50.000 giáo viên trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập vẫn làm việc theo cách thức hợp đồng công tích, chưa được tuyển dụng vào viên chức.

    Nguyên nhân của sinh tồn này là do một thời gian dài trước đây, hệ thống trường mầm non chủ công là loại hình bán công, gắn với hợp tác xã, dân dụng, tổ chức, giáo viên hưởng lương theo công điểm hoặc từ nguồn kinh phí của phụ huynh đóng góp, hoặc do tập đoàn trực tiếp chi trả.

    Thực hiện Luật Giáo dục năm 2005, các trường mầm non bán công chuyển dần sang loại hình trường công lập và dân lập, tư thục. Khi biến đổi loại hình trường, giáo viên mầm non trong các trường công lập được tuyển dụng viên chức. Tuy nhiên, do chỉ tiêu biên chế ít, nên số lượng giáo viên được tuyển dụng còn tránh nên dẫn đến tình trạng giáo viên có đủ tiêu chuẩn, trình độ, làm việc gần giống như giáo viên là viên chức trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập nhưng không được hưởng các cơ chế phụ cấp thâm niên, phụ cấp đứng lớp như giáo viên là viên chức.

    bởi vậy, Quyết định số 60/2011/QĐ-TTg đã đưa giải pháp hỗ trợ để đối tượng giáo viên hợp đồng công trạng trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập được hưởng chế độ tương đương như giáo viên là viên chức.

    đa số giáo viên thuộc đối tượng này được cung cấp chính sách theo pháp luật tại Thông tư 09/TTLT-BNV-BGDĐT chỉ dẫn thực hiện Quyết định số 60/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, cũng như tiếp tục được quy định tại Nghị định số 06/2018/NĐ-CP, cụ thể:

    trước tiên là giáo viên mầm non (gồm cả phó hiệu trưởng) làm việc theo cách thức hợp đồng công lao trong định mức giáo viên được cấp có thẩm quyền phê duyệt ở các cơ sở giáo dục mầm non công lập.

    Đối tượng trên, nếu đủ tiêu chuẩn chức danh giáo viên mầm non hạng IV (mã số V.07.02.06) trở lên thì được ký hợp đồng công lao, xếp lương ở chức danh giáo viên mầm non hạng IV (mã số V.07.02.06) theo bảng lương quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP, Nghị định số 17/2013/NĐ-CP và được hưởng các hình thức, chính sách theo luật pháp hiện hành như giáo viên mầm non là viên chức trong các cơ sở giáo dục mầm non công lập.

    Thời gian và bậc lương hưởng khi thực hiện cách thức hợp đồng công phu được nối tiếp để xếp lương và thực hiện chế độ khi được tuyển dụng theo cơ chế hợp đồng làm việc.

    Thứ hai là giáo viên mầm non (bao gồm cả hiệu trưởng, phó hiệu trưởng) đang làm việc ở các cơ sở giáo dục mầm non dân lập, tư thục. Các giáo viên này được nhà nước cung cấp tài liệu và giá thành tập huấn khi tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng tăng cường kiến thức nghiệp vụ.

    Giáo viên đang công tác tại các cơ sở mầm non tư thục được cung cấp bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ như giáo viên công lập, giúp các cô vững vàng hơn về kĩ năng nghề nghiệp, từ đó, các cô tự tin cơ quan các hành động chăm nom, giáo dục trẻ tốt hơn.

    Mức hỗ trợ của ngân sách thực hiện theo mức cung cấp với giáo viên công lập có cùng trình độ nhập cuộc tập huấn, bồi dưỡng am hiểu, nghiệp vụ theo luật pháp.

    cung cấp giáo viên vùng khó khăn học tiếng của người dân tộc thiểu số

    Để giao tiếp tốt và hỗ trợ thực hiện chương trình giáo dục mầm non cùng với trẻ người sử dung tộc thiểu số, giáo viên mầm non phải tự học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, trước đây chưa có hình thức cho giáo viên mầm non khi nhập cuộc các lớp học này. Nay Nghị định số 06/2018/NĐ-CP đã bổ sung chính sách với giáo viên mầm non tham gia học tiếng nói và chữ viết của người dân tộc thiểu số.

    Theo đó, giáo viên mầm non (gồm cả hiệu trưởng, phó hiệu trưởng) trực tiếp chăm sóc, giáo dục trẻ em dân tộc thiểu số thuộc vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc trưng cạnh tranh được thanh toán tiền mua tài liệu học tập (không tính tài liệu tham khảo) tiếng nói và chữ viết của người sử dung tộc thiểu số (nếu có) theo lao lý. Tiền mua tài liệu học tập (ngoài tài liệu tham khảo) được chi trả theo hóa đơn tài chính thực mua và được trả không quá 3 năm.

    Nghị định số 06/2018/NĐ-CP cũng đã bổ sung chính sách mới cho giáo viên mầm non trực tiếp dạy 2 buổi/ngày tại các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo ghép từ hai độ tuổi trở lên ở các điểm lẻ hoặc trực tiếp dạy tăng cao tiếng Việt tại các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo có con nít là dân dụng tộc thiểu số tại các điểm lẻ ở các cơ sở giáo dục mầm non công lập ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội cạnh tranh hoặc đặc biệt cạnh tranh theo luật pháp của Thủ tướng Chính phủ.

    chi tiết, hàng tuần được hỗ trợ thêm một khoản bằng tiền là 450.000 đồng/tháng. Thời gian hưởng cung cấp là 9 tháng/năm (từ tháng 9 năm trước đến hết tháng 5 của năm liền kề), tiền hỗ trợ được trả với việc chi trả tiền lương của tháng và không dùng tính đóng hưởng BHXH, BHYT, BHTN.

    Đời sống của giáo viên mầm non hiện còn gặp nhiều khó khăn, giáo viên chịu áp lực vì thời gian và cường độ làm việc căng thẳng, tuy nhiên, cơ chế lương và các thu nhập khác chưa tương xứng với công lao và áp lực nghề nghiệp, đặc biệt tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc trưng cạnh tranh, các thôn/bản nằm cách xa trung tâm, điều kiện di chuyển khó khăn.

    Do điều kiện địa lý, dân cư, phải tồn tại nhiều điểm trường, số lượng trẻ từng độ tuổi ít nên phải công sở các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo ghép từ 2 đến nhiều độ tuổi, đa dân tộc. Thực tế, trong một lớp học có nhiều dân tộc (có lớp có tới 11 dân tộc) với nhiều độ tuổi khác biệt khiến giáo viên mầm non gặp nhiều khó khăn trong việc chăm nom, giáo dục trẻ.

    Để bảo đảm chất lượng chăm nom, giáo dục, giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian hơn cho công việc soạn bài, sẵn sàng đồ dùng, đồ chơi; trên lớp, giáo viên phải phân nhóm, làm việc với từng nhóm trẻ khác biệt cả về dân tộc cũng như độ tuổi, thời gian làm việc kéo dài 9 đến 10 giờ/ngày chưa kể thời gian soạn bài và làm đồ dùng, đồ chơi tại nhà.

    bởi thế, Nghị định số 06/2018/NĐ-CP là một niềm vui lớn đối với trẻ em mầm non vùng khó khăn, vùng có đông đồng bào mọi người tộc thiểu số và các cô giáo mầm non được hưởng chính sách. Đồng thời, biểu hiện sự lưu tâm đặc thù của Đảng, Nhà nước cùng với giáo dục mầm non, giúp bậc học có cơ sở để tăng trưởng ổn định bền vững. Mùa xuân mới sắp tới, chờ đợi giáo dục mầm non sẽ có nhiều khởi sắc, nhân rộng nhiều niềm vui từ đây. >>> Công ty sản xuất đồ chơi mầm non
     

Chia sẻ trang này